Những câu hỏi liên quan
phạm danh
Xem chi tiết
ILoveMath
20 tháng 12 2021 lúc 21:56

Tham khảo

Ngành Thân mềm (Mollusca, còn gọi là nhuyễn thể hay thân nhuyễn) là một ngành trong phân loại sinh học có các đặc điểm như cơ thể mềm, có thể có vỏ đá vôi che chở và nâng đỡ, tùy lối sống mà vỏ và cấu tạo cơ thể có thể thay đổi. Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại rất đa dạng, phong phú và là nhóm động vật biển lớn nhất chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển đã được đặt tên. Trong các khu vực nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, ngành này có hơn 90 nghìn loài hiện hữu, trong đó có các loài như trai, sò, ốc, hến, ngao, mực, bạch tuộc. Chúng phân bố ở các môi trường như biển, sông, suối, ao, hồ và nước lợ. Một số sống trên cạn. Một số nhỏ chuyển qua lối sống chui rúc, đục ruỗng các vỏ gỗ của tàu thuyền như con hà.

Bình luận (1)
Đông Hải
20 tháng 12 2021 lúc 21:57

Tham khảo

 

Tham khảo

Ngành Thân mềm (Mollusca, còn gọi là nhuyễn thể hay thân nhuyễn) là một ngành trong phân loại sinh học có các đặc điểm như cơ thể mềm, có thể có vỏ đá vôi che chở và nâng đỡ, tùy lối sống mà vỏ và cấu tạo cơ thể có thể thay đổi. Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại rất đa dạng, phong phú và là nhóm động vật biển lớn nhất chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển đã được đặt tên. Trong các khu vực nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, ngành này có hơn 90 nghìn loài hiện hữu, trong đó có các loài như trai, sò, ốc, hến, ngao, mực, bạch tuộc. Chúng phân bố ở các môi trường như biển, sông, suối, ao, hồ và nước lợ. Một số sống trên cạn. Một số nhỏ chuyển qua lối sống chui rúc, đục ruỗng các vỏ gỗ của tàu thuyền như con hà.

Bình luận (1)
phạm danh
Xem chi tiết
Chanh Xanh
9 tháng 12 2021 lúc 13:53

Tham khảo

Ngành Thân mềm (Mollusca, còn gọi là nhuyễn thể hay thân nhuyễn) là một ngành trong phân loại sinh học có các đặc điểm như cơ thể mềm, có thể có vỏ đá vôi che chở và nâng đỡ, tùy lối sống mà vỏ và cấu tạo cơ thể có thể thay đổi. Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại rất đa dạng, phong phú và là nhóm động vật biển lớn nhất chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển đã được đặt tên. Trong các khu vực nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, ngành này có hơn 90 nghìn loài hiện hữu, trong đó có các loài như trai, sò, ốc, hến, ngao, mực, bạch tuộc. Chúng phân bố ở các môi trường như biển, sông, suối, ao, hồ và nước lợ. Một số sống trên cạn. Một số nhỏ chuyển qua lối sống chui rúc, đục ruỗng các vỏ gỗ của tàu thuyền như con hà.

Bình luận (0)
N           H
9 tháng 12 2021 lúc 13:54

- Sự đa dạng của ngành Thân mềm được thể hiện ở các khía cạnh:

+ Hình dạng

+ Kích thước

+ Môi trường sống

+ Tập tính sống

+Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại rất đa dạng, phong phú và là nhóm động vật biển lớn nhất chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển đã được đặt tên. Trong các khu vực nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, ngành này có hơn 90 nghìn loài hiện hữu, trong đó có các loài như trai, sò, ốc, hến, ngao, mực, bạch tuộc

Bình luận (1)
Đông Hải
9 tháng 12 2021 lúc 13:54

Tham khảo

 

- Sự đa dạng của ngành Thân mềm được thể hiện ở các khía cạnh:

+ Hình dạng

+ Kích thước

+ Môi trường sống

+ Tập tính sống

+Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại rất đa dạng, phong phú và là nhóm động vật biển lớn nhất chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển đã được đặt tên. Trong các khu vực nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, ngành này có hơn 90 nghìn loài hiện hữu, trong đó có các loài như trai, sò, ốc, hến, ngao, mực, bạch tuộc

Bình luận (0)
Chans
Xem chi tiết
minh nguyet
27 tháng 4 2021 lúc 21:58

Nhiều loài thực vật có giá trị cao bị giảm sút do bị khai thác và môi trường sống của chúng bị tàn phá.

Chưa có những chính sách bảo vệ và gây rựng lại rừng bị chặt phá.

Do con người khai thác bừa bãi các khu rừng để phục vụ nhu cầu trước mắt.

Bien pháp:

- Ngăn chặn phá rừng để bảo vệ môi trường sống cho thực vật. 
- Hạn chế khai thác bừa bải các loại thực vật quí hiếm để bảo vệ số lượng cá thể của loài. 
- Xây dựng các vườn thực vật, vườn quốc gia, khu bảo tồn…để bảo vệ các loài thực vật, trong đó có thực vật quí hiếm. 
- Tuyên truyền giáo dục rộng rải trong nhân dân để cùng tham gia bảo vệ rừng.. 

Liên hệ bản thân em có thể làm được gì trong việc bảo vệ thực vật ở địa phương? 
- Tuân theo các biện pháp và tuyên truyền các biện pháp này cho người thân, hàng xóm để bảo vệ sự đa dạng thực vật ở địa phương. 
- Tham gia bảo vệ, chăm sóc và trồng cây xanh ở trường, địa phương. 
- Tham gia các hoạt động trồng cây gây rừng ở địa phương.

Bình luận (0)
Chans
27 tháng 4 2021 lúc 21:59

tick luôn cho mỗi bạn 1 đ câu đúng yeu

Bình luận (2)
Tử Lam
27 tháng 4 2021 lúc 21:57

Nguyên nhân gì khiến cho đa dạng thực vật ở Việt Nam bị giảm sút?
- Khai thác rừng quá mức
- Ở các vùng còn đốt rừng làm nương
- Chưa có sự quản lí chặt chẽ của các chính quyền
- Còn tồn tại nhiều lâm tặc :')
- Ý thức của người dân chưa tốt
- Do thiên tai, cháy rừng

Nguyên nhân gì khiến cho đa dạng thực vật ở Việt Nam bị giảm sút?
- Khai thác rừng quá mức
- Ở các vùng còn đốt rừng làm nương
- Chưa có sự quản lí chặt chẽ của các chính quyền
- Còn tồn tại nhiều lâm tặc :')
- Ý thức của người dân chưa tốt
- Do thiên tai, cháy rừng

Bình luận (0)
Trương Hà Linh
Xem chi tiết
Đăng Khoa
14 tháng 3 2021 lúc 9:47

* Nguyên nhân suy giảm:

+ Do con người khai thác, chặt phá rừng.

+ Do ảnh hưởng của lũ lụt, thiên tai.

+ Do con người khai thác và săn bắn các loài quý hiếm và có giá trị.

+ Do thiếu nơi ở, môi trường sinh sống.

* Biện pháp bảo vệ những loài bò sát có ích:

- Nuôi nhiều loài Bò sát có giá trị kinh tế cao: Baba, cá sấu,....

- Bảo vệ các loài Bò sát quý hiếm trong tự nhiên

- Không săn bắt các loài Bò sát quý hiếm

- Không buôn bán, vận chuyển các loài Bò sát quý hiếm

- Không chặt phá rừng bừa bãi làm mất nơi ở và sinh sản của Bò sát

- Tuyên truyền rộng rãi tới mọi người chung tay bảo vệ các loài bò sát nhất là bò sát quý hiếm.

- Thành lập các khu bảo tồn động vật đặc biệt các loại bò sát có lợi

- Bảo vệ môi trường sống hoang dã của các loại động vật bò sát

- Nhân rộng vốn gen của các loại bò sát

- Xử phạt các trường hợp săn bò sát trái phép

Bình luận (0)
Hquynh
14 tháng 3 2021 lúc 9:48

- Khuyến cáo mọi người không nên săn bắn các lòa bò sát

- Những người bắt các loài bò sát nên thả chúng về thiên nhiên để duy trì nòi giống

 

Bình luận (0)
gái xinh từ nhỏ
16 tháng 5 2021 lúc 9:43

 Các biện pháp : 

+ Không sắn bắt các loài bò sát quý hiếm : Cá sấu, tắc kè, rùa, .... 

+ Mở rộng môi trường sống cho chúng ( Những loài không gây nguy hiểm cho con người ) 

+ Thả những loài hoang dã ( có thể gây nguy hiểm cho con người) vào rừng tự nhiên, hoặc nuôi chúng trong những nơi được nhà nước cấp phép

+ Không diệt tận gốc các loài bò sát 

+ Báo cáo với cơ quan chứ năng về những hành vi buôn bán động vật trái phép ( ở đây là những loài bò sát ) 

Bình luận (0)
Diệp Alesa
Xem chi tiết

Câu 1:

5 loài động vật ăn thịt lấy cá làm thức ăn: Gấu, chim biển, cá voi, con người, Cáo

Câu 2:

5 loài gia súc ăn cỏ: bò, trâu, dê, ngựa, thỏ

Câu 3:

Nguyên nhân: - Do con người săn bắt bừa bãi, trái phép

                        - Do con người hủy hoại môi trường sống của chúng

Biện pháp khắc phục: - Lên án những hành vi bán, xuất khẩu động vật tái phép; những                                              hành vi phá hoại môi trường sống của chúng

                                      - Tuyên truyền, giáo dục. nhắc nhở để mọi người cùng thực hiện

Câu 4:

Vai trò của động vật không xương sống

- Có lợi: + Làm thực phẩm, có giá trị xuất khẩu

               + Có giá trị dinh dưỡng, chữa bệnh

               + Có giá trị về mặt địa tầng

               + Tiêu diệt loài động vật có hại

               + Làm đồ trang trí, làm vật trang tí

               + Làm sạch môi trường nước

               + Làm màu mỡ đất trồng

- Có hại: + Có hại cho cây trồng, con người, vật nuôi

                + Là vật chủ trung gian truyền bệnh

                + Hại đồ gỗ trong nhà

Câu 5:

Biện pháp bảo vệ và phát triển:

- Không hủy hoại môi trường sống, săn bắt động vật ko xương sống trái phép

- Lên án những hành vi bán, xuất khẩu động vật tái phép; những                                              hành vi phá hoại môi trường sống của chúng

- Tuyên truyền, giáo dục. nhắc nhở để mọi người cùng thực hiện, có ý thức trong việc bảo vệ động vật ko xương sống

 

Bình luận (2)
Khánh Đăng
Xem chi tiết
Chanh Xanh
6 tháng 1 2022 lúc 9:32

Không xã rác ngoài đường , xuống sông mà hãy bỏ vào thùng rác

Bình luận (0)
Tran My Quyen
Xem chi tiết
Đinh Tuấn Việt
7 tháng 3 2016 lúc 18:12

Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh nằm trên địa bàn 2 huyện Nam Giang và Phước Sơn, giáp biên giới nước Lào với diện tích vùng lõi trên 93.000ha và hơn 108.000ha vùng đệm. Nơi đây ngoài hệ thực vật phong phú còn có nhiều loài động vật đa dạng, quý hiếm với danh mục gồm 53 loài thú, hàng trăm loài chim, bò sát, loài lưỡng cư... Vì vậy, vấn đề nâng cao ý thức của người dân địa phương trong việc bảo vệ các loài động vật hoang dã cũng như công tác bảo vệ rừng nói chung là nhiệm vụ cấp bách.

Để tuyên truyền về bảo vệ động vật hoang dã, nhân viên của Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh thường xuyên lồng ghép vào các buổi sinh hoạt cộng đồng làng. Đối với nhiều người dân tại xã Ta Bhing (Nam Giang), điều kiện sống, tập quán canh tác của người dân luôn gắn liền với rừng, vì vậy việc tuyên truyền bảo vệ động vật hoang dã có ý nghĩa đặc biệt trong bảo vệ sự đa dạng sinh học của khu bảo tồn. Cách truyền tải thông tin đơn giản, dễ hiểu; tuyên truyền trực quan bằng các pa nô, tranh ảnh giúp người dân dễ phân biệt và hiểu rõ hơn về hành vi xâm hại rừng, nhất là việc săn bắn các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng cao. Anh Bling Thạch (thôn Pà Xua, xã Ta Bhing) cho hay: “Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh thường xuyên gửi công văn và cắt cử cán bộ kiểm lâm xuống tận thôn, bản để tuyên truyền nâng cao nhận thức về Luật Quản lý bảo vệ rừng, bảo vệ các động vật hoang dã quý hiếm trong rừng cũng như công tác phòng cháy chữa cháy. Nhờ đó bà con trong bản được nâng cao nhận thức về công tác bảo vệ rừng tự nhiên, bảo vệ động vật hoang dã sống trong rừng”.

 
 

Ngoài việc tổ chức các buổi tuyên truyền định kỳ đến các thôn, xã nằm sát khu bảo tồn, cán bộ, nhân viên của Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh còn thường xuyên phân công lực lượng tham gia cùng người dân tuần tra, kiểm soát những diện tích rừng tự nhiên mà bà con nhận giao khoán bảo vệ. Trong đó, ngoài việc phát hiện, tháo dỡ bẫy động vật rừng, lực lượng kiểm lâm còn lồng ghép trang bị thêm cho người dân kỹ năng phát hiện, xử lý kịp thời những hành vi săn bắt, vận chuyển động vật hoang dã. Ông Lê Đức Tuấn - Phó Giám đốc Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh nói: “Bên cạnh công tác phối hợp với các lực lượng chức năng tuần tra bảo vệ rừng, đơn vị chúng tôi đã tăng cường công tác tuyên truyền lưu động với khẩu hiệu “Hãy nói không với động vật hoang dã” ở tất cả thôn, bản trong lâm phận đơn vị quản lý. Những lần họp thôn, họp xã đơn vị thường lồng ghép đưa nội dung bảo vệ động vật hoang dã nhằm tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân. Từ đó, người dân cùng phối hợp chặt chẽ với khu bảo tồn bảo vệ rừng, bảo vệ động vật hoang dã”.

Bình luận (1)
Tran My Quyen
7 tháng 3 2016 lúc 18:14

câu này có trên mạn mà bạn Đinh Tuấn Việt

Bình luận (0)
Trần Lưu Gia Ngân
Xem chi tiết
Nguyễn Quang Huy
29 tháng 3 2016 lúc 20:13

(1)vảy, mang

(2)lông vũ, cánh

(3) Ko san ban, tuyen truyen cho moi nguoi, tiem phong khi co dich benh lay lan, can bao ve nhung dong vat quy hiem,ko chat pha cay rung,...

Bình luận (2)
Nguyễn Thắng Tùng
29 tháng 3 2016 lúc 20:15

\(\left(2\right)\)Lớp Chim có số lượng loài phong phú, có khoảng 8.600 loài, phân bố khắp mọi miền trên Trái Đất. Trên suốt 130 triệu năm tiến hoá theo hướng thích nghi với chuyển vận bay nên tất cả các loài chim hiện đại từ chim ruồi chỉ nặng 1,8g đến đà điểu châu Phi to lớn nặng gần 80kg đều có cấu trúc cơ thể đồng dạng. Hình thái và cấu tạo cơ thể chim có đặc điểm sau:

- Cơ thể chim có hình dạng ô van ngắn, chia bốn phần: Đầu, cổ, thân và đuôi. Toàn thân phủ lông vũ. Chi trước thường biến đổi thành cánh thích nghi để bay. Chi sau biến đổi khác nhau thích hợp với đậu trên cành cây, đi trên mặt đất và bơi trong nước. Bàn chân 4 ngón.


- Da mỏng, hầu như không có tuyến, trừ tuyến phao câu toàn thân phủ lông vũ, một điều kiện rất cần thiết để cho chim có thể bay được. Chân phủ vảy sừng.


- Bộ xương hoàn toàn bằng xương. Tuy nhiên để thích nghi với sự bay, xương có cấu tạo xốp, nhiều khoang khí. Hộp sọ lớn, có một lồi cầu chẩm, xương hàm không có răng chỉ phủ mỏ sừng. Các đốt sống thân có xu hướng gắn lại với nhau, trong khi đó các đốt sống cổ lại khớp với nhau rất linh hoạt. xương sườn nhỏ, xương ức phát triển tạo nên gờ lưỡi hái. Đai vai và xương chi trước biến đổi thích nghi với sự bay. Đai hông có cấu tạo thích nghi với việc đẻ trứng lớn có vỏ cứng.


- Hệ thần kinh phát triển cao: Bán cầu não, thuỳ thị giác và tiểu não lớn, thuỳ khứu giác nhỏ. Não bộ uốn khúc rõ ràng. Có 12 đôi dây thần kinh não.


- Giác quan phát triển: Cơ quan thính giác gồm tai trong, giữa và ngoài, có vành tai đơn giản. Cơ quan thị giác phát triển, là bộ phận định hướng khi bay. Khứu giác kém phát triển.


- Hệ tuần hoàn khá phát triển: Tim 4 ngăn, chỉ còn cung chủ động mạch phải. Hệ mạch máu gan thận tiêu giảm. Có 2 vòng tuần hoàn cách biệt, máu không pha trộn, tế bào máu đỏ có nhân.


- Hô hấp bằng phổi, có hệ túi khí phát triển len lỏi trong nội quan, da và xương. Hệ thống túi khí giúp chim giảm nhẹ trọng lượng, cách nhiệt và đặc biệt là tham gia hô hấp khi chim bay.


- Cơ quan tiêu hoá biến đổi quan trọng như không có răng, thiếu ruột thẳng tích trữ phân, các phần nội quan đều tập trung về phía trước cơ thể.


- Hệ bài tiết là hậu thận. Ống dẫn niệu nối với huyệt, không có bóng ***, nước tiểu đặc, sản phẩm bài tiết giống như bò sát là axit uric, được thải ra cùng với phân.


- Hệ sinh dục phân tính. Con đực có đôi tinh hoàn không bằng nhau, tinh quản đổ vào huyệt, cơ quan giao cấu chỉ có vịt ngan, chim chạy... Con cái chỉ có 1 buồng trứng và một ống dẫn trứng trái, do vậy trọng lượng cơ thể chim giảm đi nhiều.


- Thụ tinh trong, ấp trứng và chăm sóc con. Trứng nhiều noãn hoàng, có vỏ màng trong và vỏ đá vôi ở ngoài. Phát triển có hình thành màng phôi. Chim non mới nở thường là chim khoẻ mạnh.

 

\(\left(3\right)\)- Xây dựng khu bảo tồn, rừng bảo tồn động vật.

- Bảo vệ môi trường sống cho các loài động vật trên.- Khai thác và bảo vệ động vật có giá trị kinh tế cao, có nguy cơ tuyệt chủng.
Bình luận (0)
Nguyễn đức mạnh
29 tháng 3 2016 lúc 20:24

  mang

lông cánh

cấm săn bắn, cho vào sở thú , nuôi...

Bình luận (0)
Dương Thị Mỹ Duyên
Xem chi tiết
Hà Phương Thảo
29 tháng 10 2019 lúc 15:15

Nguyên nhân do con người khai thác rừng bất hợp pháp ,buôn bán gỗ quý,không bảo vệ rừng,hiệu ứng nhà kính nóng lên ,các trận mưa axit,sạt lở đất ,dịch bệnh ở cây phát sinh .....(nhìu lắm viết khong hết )

Biện pháp trồng cây gây rừng ,phủ đòi trọc,khuyến khích mọi người bảo vệ rùng, nhiêm cấm chặt phá cây rừng....

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Hà Phương Thảo
29 tháng 10 2019 lúc 15:17

nhìu lắm nhung ko viết hết được mong thông cảm

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa
Lionel Messi
29 tháng 10 2019 lúc 15:24

Đất ô nhiễm bị gây ra bởi sự có mặt của hóa chất xenobio (sản phẩm của con người) hoặc do các sự thay đổi trong môi trường đất tự nhiên. Nó được đặc trưng gây nên bởi các hoạt động công nghiệp, các hóa chất nông nghiệp, hoặc do vứt rác thảikhông đúng nơi quy định. Các hóa chất phổ biến bao gồm hydrocacbon dầu, hydrocacbon thơm nhiều vòng (như là naphthalene and benzo(a)pyrene), dung môi, thuốc trừ sâu, chì, và các kim loại nặng. Mức độ ô nhiễm có mối tương quan với mức độ công nghiệp hóa và cường độ sử dụng hóa chất.

Các mối quan tâm về ô nhiễm đất bắt nguồn chủ yếu từ nguy cơ về sức khỏe, sự tiếp xúc trực tiếp với đất bị ô nhiễm, hơi từ các chất gây ô nhiễm, ô nhiễm thứ cấp từ các nguồn cung cấp nước trong đất.[1] Lập bản đồ và làm sạch các vùng đất bị ô nhiễm thường tốn thời gian và tốn kém, đòi hỏi kiến thức phong phú về địa chất, thủy văn, hóa học, kỹ năng mô hình máy tính, và GIS trong ô nhiễm môi trường, cũng như sự đánh giá cao về lịch sử của công nghiệp hóa chất.

Ở Bắc Mỹ và Tây Âu có mức độ ô nhiễm đất được biết đến nhiều nhất, nhiều nước trong các khu vực này có một khuôn khổ pháp lý để xác định và giải quyết vấn đề môi trường này. Các nước đang phát triển có quy định ít chặt chẽ hơn mặc dù một số nước này đã trải qua công nghiệp hóa.

Ô nhiễm đất có thể gây ra bởi:

Tai nạn tràn chất ô nhiễmMưa axitThâm canhNạn phá rừngCây biến đổi genRác thải phóng xạTai nạn công nghiệpBãi chôn lấp và vứt bỏ rác thải bất hợp phápHoạt động nông nghiệp, chẳng hạn như sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bónKhai thác mỏ và các ngành công nghiệp khácDầu và nhiên liệu thải bỏChôn lấp rác thảiThải bỏ tro thanNước mặt bị ô nhiễm thấm vào đấtXả nước tiểu và phân tự doRác thải điện tử

Các hóa chất phổ biến nhất liên quan là hydrocarbon dầu, dung môi, thuốc trừ sâu, chì, và các kim loại nặng khác.

Tro than[sửa | sửa mã nguồn]

Tro than được sử dụng cho các khu dân cư, thương mại, và công nghiệp sưởi ấm, cũng như cho quá trình công nghiệp như nấu chảy quặng, là một nguồn ô nhiễm phổ biến trong một quốc gia đã được công nghiệp hóa trước năm 1960. Than tự nhiên tập trung chì và kẽm trong thời gian hình thành của nó, cũng như các kim loại nặng ở mức độ thấp hơn. Khi than được đốt cháy, hầu hết các kim loại tập trung trong tro (ngoại trừ thủy ngân). Tro than và xỉ có thể chứa đủ lượng chì để trở thành một " chất thải nguy hại đặc trưng ", theo quy định tại Hoa Kỳ có chứa hơn 5 mg / L chì chiết bằng cách sử dụng thủ tục TCLP. Ngoài chì, tro than thường chứa các chất có nồng độ khác nhau nhưng đáng kể là polynuclear aroma hydrocarbons (PAHs, ví dụ như, benzo (a) anthracene, benzo (b) fluoranthene, benzo (k) fluoranthene, benzo (a) pyrene, indeno (cd) pyrene, phenanthrene, anthracene, và những chất khác). Các PAHs được biết đến là chất gây ung thư cho con người và nồng độ chấp nhận được của chúng trong đất thường khoảng 1 mg / kg. Tro than và xỉ có thể được nhận biết bởi sự hiện diện của các hạt màu trắng trong đất, đất màu xám không đồng nhất, hoặc (xỉ than) nhiều bọt, hạt sỏi có lỗ hổng.

Nước thải[sửa | sửa mã nguồn]

Xử lý bùn thải, được biết đến trong ngành công nghiệp như là chất rắn sinh học, và được tranh cãi như một loại phân bón cho đất. Vì nó là sản phẩm phụ của xử lý nước thải, nó thường chứa nhiều chất gây ô nhiễm như sinh vật, thuốc trừ sâu và kim loại nặng khác.[2]

Trong Liên minh châu Âu, Hướng dẫn xử lý nước thải đô thị cho phép bùn thải được phun vào đất. Khối lượng dự kiến sẽ tăng gấp đôi lên 185.000 tấn chất rắn khô năm 2005. Điều này tốt cho nông nghiệp do hàm lượng nitơ và photpho cao. Trong 1990/1991, 13% trọng lượng ướt được phun lên 0,13 % diện tích đất; Tuy nhiên, điều này được dự kiến sẽ tăng 15 lần vào năm 2005. Những người ủng hộ nói rằng có một sự cần thiết để kiểm soát này để các vi sinh vật gây bệnh không thâm nhập vào các dòng nước và để đảm bảo rằng không có tích lũy kim loại nặng trong lớp đất trên cùng.[3]

Thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ[sửa | sửa mã nguồn]

Thuốc trừ sâu là một chất hoặc hỗn hợp các chất dùng để tiêu diệt sâu bệnh. Một loại thuốc trừ sâu có thể là một chất hóa học, tác nhân sinh học (như một virus hoặc vi khuẩn), kháng khuẩn, khử trùng hoặc là một thiết bị dùng để chống lại bất kỳ các loại sâu bệnh. Sâu bệnh bao gồm côn trùng, tác nhân gây bệnh, cỏ dại, động vật thân mềm, loài chim, động vật có vú, cá, giun tròn (giun tròn) và vi khuẩn cạnh tranh với con người trong thực phẩm, hủy hoại tài sản, lây lan hoặc là một véc tơ bệnh hoặc gây ra một mối phiền toái. Mặc dù sử dụng thuốc trừ sâu là có ích nhưng cũng có nhược điểm, chẳng hạn như độc tính tiềm tàng đối với con người và các sinh vật khác.

Thuốc diệt cỏ được sử dụng để tiêu diệt cỏ dại, đặc biệt là trên vỉa hè và đường sắt. Chúng tương tự như auxin và hầu hết có thể phân hủy bởi vi khuẩn trong đất. Tuy nhiên, một nhóm có nguồn gốc từ trinitrotoluene (2:4 D và T 2:04:05) có tạp chất dioxin, rất độc hại và gây tử vong ngay cả ở nồng độ thấp. Thuốc diệt cỏ khác là Paraquat. Nó là có độc tính cao nhưng nó nhanh chóng bị giảm nồng độ trong đất do tác động của vi khuẩn và không giết chết động vật đất.

Thuốc trừ sâu được sử dụng để đưa các trang trại thoát khỏi tình trạng sâu bệnh phá hoại cây trồng. Các loài côn trùng gây hại không chỉ phá hoại cây chưa thu hoạch mà còn những nơi lưu trữ và ở vùng nhiệt đới, nó được cho rằng, một phần ba tổng sản lượng bị mất trong quá trình lưu trữ thực phẩm. Như với thuốc diệt nấm, thuốc trừ sâu đầu tiên được sử dụng trong thế kỷ XIX là loại vô cơ egParis xanh và các hợp chất khác của asen. Nicotine cũng đã được sử dụng từ cuối thế kỷ XVIII.

Hiện nay có hai nhóm chính của thuốc trừ sâu tổng hợp - 1. Organochlorines bao gồm DDT, Aldrin, Dieldrin và BHC. Chúng có giá rẻ để sản xuất, mạnh và bền vững. DDT đã được sử dụng trên quy mô lớn từ năm 1930, với đỉnh điểm là 72.000 tấn được sử dụng năm 1970. Sau đó việc sử dụng nó được giảm do các tác động có hại của nó đến môi trường. Nó đã được tìm thấy trên toàn thế giới trong cá và các loài chim và thậm chí còn phát hiện ra trong tuyết ở Nam Cực. Nó ít tan trong nước nhưng rất hòa tan trong máu. Nó ảnh hưởng đến hệ thần kinh, nội tiết và làm cho vỏ trứng của các loài chim thiếu canxi nên làm cho chúng dễ dàng vỡ. Nó được cho là chịu trách nhiệm cho sự suy giảm của số lượng các loài chim săn mồi như chim ưng biển và chim ưng trong những năm 1950 - bây giờ những loại chim này đang phục hồi.

Cũng như sự tập trung nồng độ thông qua chuỗi thức ăn, nó được biết đến có thể thâm nhập qua màng thẩm thấu, vì vậy cá hấp thụ nó qua mang. Vì nó có khả năng hòa tan nước thấp, nó có xu hướng ở lại trên bề mặt nước, vì thế sinh vật sống ở đó bị ảnh hưởng nhiều nhất. DDT được tìm thấy trong cá và vì cá tạo thành một phần của chuỗi thức ăn của con người nên đã gây ra mối quan tâm, nhưng mức được tìm thấy trong các mô gan, thận và não ít hơn 1 ppm và chất béo là 10 ppm, đó là dưới mức có thể gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, DDT đã bị cấm ở Anh và Mỹ để ngăn chặn việc tiếp tục tích lũy của nó trong chuỗi thức ăn. Các nhà máy của Mỹ tiếp tục bán DDT cho các quốc gia đang phát triển, những quốc gia không có đủ khả năng thay thế bằng các hóa chất đắt tiền và những quốc gia không có quy định nghiêm ngặt về việc sử dụng thuốc trừ sâu.

Ảnh hưởng đến sức khỏe[sửa | sửa mã nguồn]

Đất bị ô nhiễm trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe con người thông qua tiếp xúc trực tiếp với đất hoặc qua đường hô hấp do sự bốc hơi của chất gây ô nhiễm đất; các mối đe dọa tiềm tàng lớn hơn được đặt ra bởi sự xâm nhập của ô nhiễm đất vào tầng nước ngầm được sử dụng cho con người, đôi khi ở những khu vực dường như rất xa so với bất kỳ nguồn gây ô nhiễm rõ ràng trên mặt đất.

Hậu quả đến sức khỏe khi tiếp xúc với đất ô nhiễm rất khác nhau tùy thuộc vào loại chất gây ô nhiễm, cách thức tấn công và tính dễ bị tổn thương của người dân khi tiếp xúc. Tiếp xúc mãn tính với crôm, chì và các kim loại khác, xăng dầu, dung môi, và nhiều công thức thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ có thể gây ung thư, có thể gây ra rối loạn bẩm sinh, hoặc có thể gây ra các bệnh mãn tính khác. Nồng độ của các chất tự nhiên trong công nghiệp hoặc nhân tạo, chẳng hạn như nitrat và amoniac kết hợp với phân gia súc từ các hoạt động nông nghiệp, cũng đã được xác định là mối nguy hiểm sức khỏe trong đất và nước ngầm [4]

Tiếp xúc mãn tính với Benzene ở nồng độ đủ được biết là có liên quan với tỷ lệ cao của bệnh bạch cầu. Thủy ngân và cyclodienes được biết là gây ra tỷ lệ mắc cao hơn về tổn thương thận. PCBs và cyclodienes có liên quan đến nhiễm độc gan. Organophosphates và carbomates có thể gây ra một chuỗi các phản ứng dẫn đến tắc nghẽn thần kinh cơ. Nhiều loại dung môi clo gây ra những thay đổi gan, thận và thay đổi hệ thống thần kinh trung ương. Một loạt những ảnh hưởng đến sức khỏe như nhức đầu, buồn nôn, mệt mỏi, kích ứng mắt và phát ban da cho các hóa chất được trích dẫn ở trên và khác. Ở liều lượng đủ một số lượng lớn các chất gây ô nhiễm đất có thể gây tử vong do thông qua tiếp xúc trực tiếp, hít hoặc nuốt phải các chất ô nhiễm trong nước ngầm bị ô nhiễm qua đất.[5]

Chính phủ Scotland đã đưa Viện Y học lao động thực hiện các phương pháp đánh giá rủi ro đối với sức khỏe con người từ đất bị ô nhiễm. Mục tiêu tổng thể của dự án là làm những hướng dẫn mà có ích cho chính quyền địa phương người Scotland trong việc đánh giá liệu các môi trường đại diện có khả năng thiệt hại đáng kể (SPOSH) đối với sức khỏe con người hay không. Dự kiến ​​là đầu ra của dự án sẽ là một tài liệu ngắn hướng dẫn cấp cao về đánh giá rủi ro sức khỏe có sự tham khảo hướng dẫn hiện hành được xuất bản và các phương pháp đã được xác định là đặc biệt phù hợp và hữu ích. Dự án sẽ xem xét hướng dẫn chính sách được phát triển như thế nào để xác định khả năng chấp nhận rủi ro đối với sức khỏe con người và đề xuất một cách tiếp cận cho việc đánh giá những nguy cơ không thể chấp nhận phù hợp với tiêu chí SPOSH theo quy định của pháp luật và theo luật định Hướng dẫn Scotland.

Ảnh hưởng đến hệ sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

Thật không mong đợi, chất gây ô nhiễm đất có thể có những hậu quả có hại đáng kể đối với các hệ sinh thái.[6] Có những thay đổi hóa học cơ bản của đất mà có thể phát sinh từ sự hiện diện của nhiều hóa chất độc hại ngay cả ở nồng độ thấp. Những thay đổi này có thể biểu hiện ở sự thay đổi của chuyển hóa của loài vi sinh vật đặc hữu và động vật chân đốt trong một môi trường đất nhất định. Kết quả có thể mất đi một số các chuỗi thức ăn chính, từ đó có thể có những hậu quả lớn cho động vật ăn thịt hoặc loài người. Thậm chí nếu có hiệu lực hóa học trên các dạng sống thấp hơn là nhỏ, đáy kim tự tháp của chuỗi thức ăn có thể ăn các hóa chất ngoại lai, thứ thường trở nên tập trung nhiều hơn cho mỗi bậc tiêu thụ của chuỗi thức ăn. Những ảnh hưởng này hiện đang được biết đến, chẳng hạn như sự duy trì nồng độ của vật liệu DDT cho người tiêu dùng gia cầm, dẫn đến sự suy yếu của vỏ trứng, tăng số gà con chết và tuyệt chủng tiềm tàng của các loài.

Những ảnh hưởng xảy ra với đất nông nghiệp nơi có một số loại đất ô nhiễm. Chất gây ô nhiễm thường làm thay đổi quá trình chuyển hóa thực vật, thường gây giảm năng suất cây trồng. Điều này có một tác dụng phụ khi bảo tồn đất, kể từ khi cây tiều tụy nên không thể bảo vệ đất của Trái Đất khỏi sự xói mòn. Một số các chất gây ô nhiễm hóa học cóthời gian sống lâu và trong các trường hợp khác dẫn xuất hóa chất được hình thành từ sự phân rã của chất gây ô nhiễm đất chính.

Biện pháp làm sạch[sửa | sửa mã nguồn]

Làm sạch hoặc xử lý môi trường được phân tích bởi các nhà khoa học môi trường, những người đo lường và am hiểu về các lĩnh vực hóa chất đất và cũng áp dụng các Mô hình máy tính (GIS trong ô nhiễm môi trường) để phân tích sự lan truyền chất ô nhiễm [7] và thời gian tồn tại của các hóa chất trong đất. Có một số chiến lược chủ yếu để khắc phục hậu quả:

Đào đất và mang nó đến một bãi thải ra xa khỏi những con đường tiếp xúc với con người và hệ sinh thái nhạy cảm. Kỹ thuật này cũng được áp dụng để nạo vét những vịnh bùn có chứa độc tố.Sục khí đất tại địa điểm bị ô nhiễm (với nguy cơ ô nhiễm không khí)Khắc phục bằng cách dùng nhiệt để nâng cao nhiệt độ dưới bề mặt đủ cao để hơi các chất gây ô nhiễm hóa học bay ra khỏi đất. Công nghệ bao gồm ISTD, nhiệt điện trở (ERH), và ET-DSP ​​ tm .Xử lý sinh học, liên quan đến sự tiêu hóa các hóa chất hữu cơ của vi khuẩn. Kỹ thuật được sử dụng trong xử lý sinh học bao gồm landfarming, biostimulation vàbioaugmentating đất sinh vật với các vi khuẩn có trên thị trường.Chiết xuất nước ngầm hoặc hơi đất với hệ thống điện hoạt động, với việc bỏ đi chất ô nhiễm có được do chiết xuất.Ngăn chặn các chất gây ô nhiễm đất (chẳng hạn như đóng nắp hoặc mở nắp hóa chấtPhytoremediation, hoặc sử dụng các thực vật (chẳng hạn như cây liễu) để trích xuất các kim loại nặng

Ở các quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Tiêu chuẩn nồng độ các chất ô nhiễm ở quốc gia là khác nhau, đặc biệt bao gồm Hoa Kỳ EPA khu vực 9 mục tiêu xử lý sơ bộ chất ô nhiễm (US ​​PRGS), khu vực EPA Hoa Kỳ 3 đánh giá rủi ro dựa trên nồng độ (U.S. EPA RBCs) và Hội đồng Bảo vệ môi trường quốc gia của Úc hướng dẫn về mức nghiên cứu trong đất và nước ngầm.

Cộng hòa nhân dân Trung Hoa[sửa | sửa mã nguồn]

Sự phát triển to lớn và bền vững của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ những năm 1970 đã phải trả một giá cho sự tăng ô nhiễm đất. Cục Quản lý bảo vệ môi trường Nhà nướctin rằng nó là một mối đe dọa đối với môi trường, an toàn thực phẩm và nông nghiệp bền vững. Theo một mẫu nghiên cứu khoa học, 150 triệu dặm (100.000 km vuông) đất canh tác của Trung Quốc đã bị ô nhiễm, với nước bị ô nhiễm đang được sử dụng để tưới thêm 31,5 triệu dặm (21.670 km vuông.) Và 2 triệu dặm khác (1.300 km vuông) bị phủ hoặc bị phá hủy bởi chất thải rắn. Tổng cộng, khu vực ô nhiễm này chiếm một phần mười của đất canh tác của Trung Quốc, và chủ yếu là ở các vùng kinh tế phát triển. Ước tính có khoảng 12 triệu tấn ngũ cốc bị ô nhiễm kim loại nặng mỗi năm, gây thiệt hại trực tiếp là 20 tỷ nhân dân tệ (2.57 tỷ USD).[8]

Anh[sửa | sửa mã nguồn]

Hướng dẫn chung thường được sử dụng trong Vương quốc Anh là Hướng dẫn các giá trị của đất được xuất bản bởi DEFRA và Cơ quan Môi trường. Đây là sàng lọc các giá trị chứng minh mức độ tối thiểu chấp nhận được của một chất. Điều trên có thể không có sự đảm bảo về nguy cơ có hại cho sức khỏe con người. Chúng có nguồn gốc từ mô hình đánh giá sự tiếp xúc với chất ô nhiễm (Clea Anh). Một số thông số đầu vào như giá trị tiêu chí sức khỏe, độ tuổi và sử dụng đất được đưa vào Clea Anh để có được một đầu ra có thể chấp nhận được.

Hướng dẫn của Hội đồng liên phòng ban cho Tái phát triển đất bị ô nhiễm (ICRCL) đã được chính thức theo dõi bởi Bộ Môi trường, Thực phẩm và Nông thôn (DEFRA), để sử dụng như một tài liệu với quy tắc để xác định tiềm năng cần thiết cho khắc phục hoặc đánh giá thêm.

Mô hình CLEA được phát hành bởi DEFRA và cơ quan môi trường (EA) vào tháng 3 năm 2002 tạo nên một khuôn mẫu thích hợp cho đánh giá rủi ro về sức khỏe con người ở các vùng đất bị ô nhiễm,cũng như được đòi bởi phần 2A của kế hoạch hành động bảo vệ môi trường năm 1990. Một phần khuôn mẫu này, hướng dẫn về giá trị ô nhiễm đất chung (VGVs) cũng vừa được bắt nguồn từ mười chất gây ô nhiễm được dùng như "giá trị can thiệp". Những giá trị này không nên đánh giá như mục tiêu xử lý nhưng giá trị trên, cái dùng để đánh giá sâu hơn,nên được nhận định; như quy chuẩn của Hà Lan.

Ba yếu tố tạo thành của CLEA SGVs cho ba đất có mục đích sử dụng khác nhau, đó là:

Nơi cư trú (có hay không có nhà máy)Sự phân phốithương mại/công nghiệp

Điều này có dụng ý rằng SGVs thay thế sự tạo thành giá trị ICRCL. Nó nên được chú ý rằng CLEA SGVs liên quan đến đánh giá rủi ro lâu dài đến sức khỏe con người và không áp dụng cho bảo vệ công nhân trong suốt quá trình xây dựng, hoặc những người có nguy cơ tiếp nhận rủi ro khác như nước ngầm, nhà cửa, cây cối, nhà máy và các hệ sinh thái khác. CLEA SGVs không ứng dụng trực tiếp cho khu vực hoàn toàn bao bọc bởi công trình rắn, cũng như không có tiếp xúc trực tiếp thường xuyên với đất ô nhiễm.

Cho đến ngày hôm nay, mười chất đầu tiên trong số năm mươi lăm chất ô nhiễm mà SGVs công bố, gồm: arsenic, cadmium, chromium, chì, thủy ngân vô cơ, nickel, selen ethyl benzene, phenol và toluene. Bản phác thảo SGVs cho benzene, naphthalene và xylene vừa được tiến hành những chưa được công bố. Dữ liệu về tính độc hại (Tox) được công bố cho mỗi chất ô nhiễm cũng như cho benzo[a]pyrene, benzene, dioxins, furans and dioxin- PCBs, naphthalene, vinyl chloride, 1,1,2,2 tetrachloroethane và 1,1,1,2 tetrachloroethane, 1,1,1 trichloroethane, tetrachloroethene, carbon tetrachloride, 1,2-dichloroethane, trichloroethene và xylene. SGVs cho ethyl benzene, phenol và toluene phụ thuộc vào giá trị thành phần hữu cơ trong đất (SOM)(được tính toán từ tồng cácbon hữu cơ (TOC). Cũng như một thông báo ban đầu là SGVs cho 1% SOM được nhận định là thích hợp.

Bình luận (0)
 Khách vãng lai đã xóa